Đời nào ta thân nam nhi mà để thua đàn bà sao ?

Đã ba năm bỏ triều cống, vua Chiêm lại còn cho quân quậy phá phương Nam. Thánh Tông bèn thân chinh cầm quân thảo phạt, việc triều chính ỷ cho Nguyên Phi. Đã ba tháng ròng mà không hạ được thành, vua buồn bực trong lòng lắm, đứng ở nể yên có ý muốn lui binh. Chế Củ biết quân Đại Việt thoái chí nên càng giữ thế thủ không ra đánh nhau, chiêu dụ quân binh:

“Chúng ta có thành lũy vững vàng, quân Nam đã suy kiệt rồi, cứ giữ vững thế này thì chúng phải tháo lui thôi. Kẻ nào tự tiện xuất quân sẽ dùng quân lệnh nghiêm trị!”

Thánh Tông không biết làm sao đành hạ lệnh lui binh. Khi quân kéo về đến châu Cư Liên thì gặp sứ giả mang tấu chương từ Thăng Long đến. Vua bèn mở ra xem thì thấy tâu rằng:

“… Nguyên Phi hết dạ phò vua, giữ an nội chính từ trong cung cho đến ngoại triều, vỗ an đảng nghịch, huấn tập cung nhân… đều rất thuận thảo, tìm kiếm một lòng quy phục… Nguyên Phi sớm hôm cầu Phật-Bồ Tát gia hộ hoàng thượng chinh phục Chiêm Thành xong đặng khải hoàn…”

Đọc xong tấu chương Thánh Tông ngồi thừ ra một lát rồi đứng lên cảm than:

“Nguyên Phi là nữ giới mà xử việc nước giỏi như vậy, đời nào ta thân nam nhi mà để thua đàn bà sao?”

Nói xong hiệu triệu ba quân, cho người tuyên đọc tấu chương rồi đốc thúc quay trở lại quyết hạ thành cho bằng được. Lòng ba quân cũng hứng khởi và háo hức lên vì thẹn thua chí phụ nữ. Chế Củ không ngờ quân Nam quay trở lại bất ngờ không kịp chấn chỉnh quân nên thành bị hạ dễ dàng. Thánh Tông bắt sống ba vạn tù binh và cả toàn gia Chế Củ mang về Thăng Long. Vua chia tù binh cho các Vương và quan trong triều. Ngài Lý tăng lục cũng được cấp nô bộc từ số tội phạm này. Ngài tăng lục này uyên bác văn chương, thâm sâu Phật pháp và còn là một tay thi bá có tiếng của kinh đô. Một hôm ngài viết một đoản khúc thiền thi:

“Bách niên nhất sát-na bách tính tại Sa-Bà

Vạn pháp ư nhất niệm Tâm động nhập Phật-ma”

Bài thơ còn dở dang ngài để đấy đi vào nội có việc đến khi về thì thấy ai sửa câu cuối thành:

“Tâm lưu xuất Phật–ma” Bèn cả giận quát:
“Kẻ nào cả gan dám sửa thơ ta?”


Đám nô bộc sợ xanh mặt, riêng có một gã luống tuổi quỳ xuống thưa:

“Thưa chủ nhân kẻ nô bộc này có tội, vì thấy ngài viết câu cuối không hợp lẽ. Phật hay ma cũng từ một tâm mà ra, không từ ngoài vào! bởi thế dám mạo phạm sửa laị, mong chủ nhân lượng thứ.”

Ngài tăng lục vô cùng kinh ngạc:

“Ngươi cũng biết chữ, biết Phật pháp sao?”
Y lại đáp:
“Thưa chủ nhân, nô bộc tôi cũng biết chút chút.”

Tăng lục lại gạn hỏi và đưa ra nhiều thử thách nhưng y đều đáp rành mạch lưu loát. Cuối cùng y ham thích rằng:

“Tôi vốn là người Phương Bắc, thọ giáo thầy ở Triết Giang được ban cho pháp danh Thảo Đường. Mấy năm trước sang Chiêm Thành hoằng pháp rồi binh đao loạn lạc nên bị bắt làm tù binh cùng với quân Chiêm chứ thật tôi không phải người Chiêm.”

Ngài tăng lục tức tốc cho thay xống áo, tắm gội rồi bảo:
“Ngày mai tôi sẽ đưa ông vào triều ra mắt chúa thượng.”

Y quỳ tạ ơn, vị tăng lục đỡ y dậy bảo:

“Chúng tôi đều là người mộ Phật, việc ông bị bắt làm tù binh là ngoài ý muốn. Tôi hy vọng đại vương sẽ lưu dụng ông.”

Hôm sau tăng lục dẫn y vào triều kiến vua:

“Tâu thánh thượng, nhân trước kia thánh thượng ban cho một số nô bộc không ngờ trong ấy lại có một kẻ vốn là tăng hiền hậu phương Bắc. Y tri thức uyên bác, am hiểu Phật điển, thi tứ phong lưu… quả thực là ngọc lẩn trong cát đá. Nay thần dẫn y vào mong bệ hạ kiểm tra lưu dụng kẻo phí uổng người tài.”

Thánh Tông cũng kinh ngạc không kém bèn vời y lên thềm rồi tra y. Y đáp rất thành thực lại miêu tả kiến văn tót vời của mình. Vua thử vấn pháp thì y đáp như lý như pháp… Thánh Tông vô cùng hoan hỷ sanh lòng yêu mến. Vua nói:

“Trẫm thật không ngờ ngài lẫn trong đám nô bộc, âu cũng là nhân duyên gì đây. Trẫm trị quốc thương dân như con đẻ. Trẫm một lòng sùng đạo, hộ pháp hộ tăng. Hôm nay ngài lại đến đây trẫm xin bái ngài làm thầy mong ngài đừng từ chối.”

Sự thể chuyển biến nhanh và phi thường quá làm vị tăng lục cùng triều thần kinh ngạc cao độ, nhưng niềm vui, niềm hoan hỉ dâng cao khiến cả quần thần hoan hô và đồng thanh quỳ cảm tạ.

Vua cho người đưa ngài Thảo Đường ra ở chùa Khai Quốc, một ngôi chùa quan trọng hàng đầu thành Thăng Long. Hôm sau vua đến dâng lễ bái sư và phong ngài Thảo Đường là quốc sư. Thăng Long vốn có dòng Tỳ-Ni-Đa-Lưu- Chi và Vô Ngôn Thông, giờ lại có thêm một phái mới nữa là Thảo Đường. Ngài và dòng thiền của ngài hoằng dương vốn rất bác học, chuyên dùng thi kệ, văn học để hoằng hoá; nên chi đã cuộn rất nhiều các anh tinh hoa của thành Thăng Long nhập và cũng ảnh hưởng nhiều đến hai phái thiền vốn có trước kia. Có lần nhân ngày xuân rỗi việc Thánh Tông bảo các quan:

“Năm xưa trẫm thân chinh phạt Chiêm Thành, bắt Chế Củ làm tù binh sau y dâng ba châu chuộc tội. Được đất, mở cõi về phương nam cũng là lợi lớn nhưng cái lợi lớn khôn cùng mà trẫm có được ấy là quốc sư. Ngài về Đại Việt với đạo hạnh tinh khiết, Phật điển thông thái, văn học siêu việt. Đây là cái phúc của nước nhà vậy!”